Thị trường tỷ USD
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tổng lợi nhuận toàn cầu từ du lịch y tế đạt khoảng 60 tỷ USD/năm, dự kiến đến năm 2030 doanh thu của loại hình du lịch này sẽ lên đến gần 100 tỷ USD, riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ đạt 26,20 tỷ USD năm 2027.
Với thị trường rộng lớn như vậy, thời gian qua một số nước châu Á như: Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia… đã đẩy mạnh khai thác loại hình du lịch này. Đã có những thời điểm du lịch Thái Lan đón hơn 3 triệu lượt khách chữa bệnh, tạo doanh thu hơn 700 triệu USD, Ấn Độ cán mốc 3 tỷ USD, Malaysia đạt 1,7 tỷ USD doanh thu.
Thống kê của ngành du lịch cho thấy, tại Việt Nam, loại hình du lịch y tế kết hợp nghỉ dưỡng được đánh giá có thể đạt doanh thu mỗi năm khoảng 2 tỉ USD. Nguyên nhân là do dịch vụ y tế Việt Nam có giá cả phải chăng, nên thu hút nhiều du khách quốc tế sử dụng dịch vụ trong quá trình du lịch. Chẳng hạn, chi phí phẫu thuật bắc cầu tim ở Việt Nam là 10.000 - 15.000 USD, trong khi ở Thái Lan 25.000 - 30.000 USD.
Thống kê của Tạp chí International Living (Australia) cho thấy, hiện chi phí làm răng tại Việt Nam thấp hơn một số quốc gia như Mỹ, Canada, Australia từ 6 đến 10 lần. Còn so với một số quốc gia Đông Nam Á như: Thái Lan, Malaysia thì chi phí làm răng ở Việt Nam cũng rẻ hơn từ 30 - 50%.

Khách du lịch quốc tế khám chữa bệnh tại bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec. Ảnh: Hoài Nam
Giám đốc Trung tâm Mắt công nghệ cao Tâm Anh, PGS-TS Nguyễn Xuân Hiệp cho biết, xu hướng Việt kiều và người nước ngoài về Việt Nam chữa bệnh ngày càng tăng. Đây là tín hiệu đáng mừng, cho thấy chất lượng khám chữa bệnh của Việt Nam đang được nâng cao để người có tiền không phải ra nước ngoài khám chữa bệnh.
Thông tin về loại hình du lịch y tế, Chủ tịch Hiệp hội du lịch Việt Nam Vũ Thế Bình cho biết, nếu như trước đây, nhắc đến du lịch y tế tại châu Á, người ta thường nghĩ ngay đến Hàn Quốc hay Singapore, thì giờ đây Việt Nam đang ghi dấu ấn rõ nét trên bản đồ khu vực. Nguyên nhân là bởi ngành du lịch nước ta đã có sự kết hợp giữa nền y học cổ truyền phương Đông nghìn năm với trải nghiệm nghỉ dưỡng. Hiện nhiều địa phương đã triển khai các dịch vụ du lịch chăm sóc sức khỏe thông qua các liệu pháp như tắm lá thuốc, xông hơi thảo dược, chườm đá nóng hay bắt mạch và kê đơn thuốc bởi các lương y bản địa.
“Tại các điểm đến như Ninh Bình, Huế, Nha Trang, nhiều cơ sở lưu trú, resort, homestay đã tích hợp những dịch vụ chăm sóc sức khỏe để thu hút du khách. Một số khu nghỉ dưỡng cao cấp tại các tỉnh Tây Bắc còn xây dựng khu trị liệu riêng biệt, cung cấp đầy đủ các liệu trình hồi phục cơ thể, giảm căng thẳng, cải thiện giấc ngủ bằng dược liệu tự nhiên” - ông Vũ Thế Bình nêu ví dụ.
Thống kê của Cục du lịch Quốc gia cho thấy, trung bình mỗi năm có khoảng 300.000 người từ nước ngoài đến Việt Nam khám, chữa bệnh. Trong đó, du khách đến từ Australia, Mỹ, Newzealand nằm trong tốp 3 du khách quốc tế đến Việt Nam thường xuyên để thực hiện dịch vụ khám, chữa răng, kết hợp du lịch, trải nghiệm. Đó là chưa kể vào mỗi dịp lễ, Tết, hàng chục ngàn kiều bào từ khắp nơi trên thế giới về thăm quê kết hợp với việc làm răng.
Vẫn còn nhiều việc cần khắc phục
Nhìn nhận về khai thác du lịch y tế, chăm sóc sức khỏe, các chuyên gia đánh giá, mặc dù Việt Nam có nhiều thế mạnh để phát triển du lịch y tế, song chưa chú trọng thông tin về các dịch vụ du lịch kết hợp chữa bệnh, lượng doanh nghiệp tổ chức các tour kết hợp chăm sóc sức khỏe không nhiều.

Phản ánh về những khó khăn trong quá trình liên kết với các phòng khám để xây dựng tour y tế dành cho người nước ngoài, Giám đốc Công ty Sun Smile Travel Việt Nam Dương Thanh Hằng chia sẻ, trên website các bệnh viện chưa có nhiều thông tin, thậm chí không có tiếng Anh để tra cứu, cũng như chưa có các dịch vụ hỗ trợ kèm theo. Điều này khiến người nước ngoài khó tìm kiếm một dịch vụ du lịch y tế trọn gói để sử dụng.
Ngoài ra, ngoại ngữ của y tá, điều dưỡng tại bệnh viện còn hạn chế khó giao tiếp với người nước ngoài. Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa các địa phương, các cơ sở có điều kiện phát triển du lịch y tế với doanh nghiệp lữ hành còn thiếu đồng bộ. “Việt Nam muốn thu hút được du khách quốc tế đến du lịch kết hợp khám chữa bệnh, cần cải thiện được trình độ ngoại ngữ của nhân viên y tế không phụ thuộc vào người phiên dịch” - bà Dương Thanh Hằng nói.
Chia sẻ về những khó khăn trong quá trình xây dựng tour du lịch khám chữa bệnh cho khách quốc tế, doanh nghiệp du lịch có chung ý kiến hầu hết các phòng khám tư nhân của Việt Nam chưa được tổ chức y tế thế giới cấp giấy chứng nhận.
Giám đốc Công ty Du lịch Vòng Tròn Việt Phan Đình Huê cho biết, không ít bệnh viện tư nhân chưa đạt các tiêu chuẩn quốc tế như JCI hay ISO nên du khách nước ngoài còn ngần ngại đăng ký dịch vụ khám, chữa bệnh trong quá trình sử dụng tour. “Để thu hút được du khách, các cơ sở y tế cần nâng cao tiêu chuẩn để được cấp các chứng nhận quốc tế qua đó du khách tin tưởng sử dụng dịch vụ” - ông Huê hiến kế.
Đồng tình với phản ánh này, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ, hiện Việt Nam chưa có những nghiên cứu đầy đủ về tiềm năng, những yếu tố cần thiết, cũng như chưa có định hướng, chính sách cụ thể để phát triển loại hình du lịch này. Bộ Y tế chưa chuẩn hóa quy trình chăm sóc sức khỏe, khiến phần lớn cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch như resort, khách sạn, homestay chăm sóc sức khỏe chỉ ở mức đáp ứng nhu cầu cơ bản cho du khách.
Tương tự, tại buổi giới thiệu du lịch y tế Hàn Quốc với doanh nghiệp lữ hành Việt Nam mới được tổ chức, Giám đốc Sở Công nghiệp Du lịch Seoul (Hà Quốc) Ham Kyung-jun chia sẻ, ngành du lịch y tế ở Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển và thu hút du khách quốc tế sử dụng du lịch y tế. Nhưng để làm được việc đó đòi hỏi cần phải có những quy định về luật pháp đảm bảo cho khách nước ngoài khi đến Việt Nam có được điều kiện và môi trường tốt nhất để có thể an tâm sử dụng dịch vụ y tế.
“Ngành du lịch y tế liên quan đến sức khỏe cũng như sinh mạng của khách hàng, do đó cần phải có một hệ thống chặt chẽ để đảm bảo sự an toàn và phòng ngừa những rủi ro, bất chắc có thể đến với khách hàng”- ông Ham Kyung-jun khẳng định.